Thứ Sáu, 4 tháng 2, 2011

"Sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật là hình thức ngụy trang của những ham muốn vô thức" - S. Freud


Phân tâm học

Từ khi hình thành cho tới nay, các hình thái nghệ thuật đã đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Chính nghệ thuật với những thành tựu đáng nể của nó đã làm cho cuộc sống nhân loại trở nên phong phú và Người hơn. Chính vì thế mà không ít người đã cất công nghiên cứu đặc điểm cũng như vai trò của các ngành nghệ thuật. Mỗi người với một góc độ nghiên cứu khác nhau sẽ đưa ra những quan điểm khác nhau về nghệ thuật. Với S.Freud, triết gia của cõi vô thức, dưới cái nhìn phân tâm học, ông đã khẳng định rằng: “Sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật là hình thức nguỵ trang những ham muốn vô thức”. Quan điểm này của ông cho tới nay vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi.


Để hiểu được quan điểm của Freud về nghệ thuật, trước hết chúng ta cần hiểu vô thức - hạt nhân của phân tâm học Freud – là gì? Vô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo. Theo Freud, vô thức là nền tảng cho ý thức. Đời sống ý thức chỉ là một tảng băng trôi trên mặt biển mà vô thức là phần ở chìm sâu dưới nước, không thấy được nhưng lại lớn hơn muôn vạn lần và quyết định sinh hoạt và nội dung của ý thức. Cái góc tối nhất của vô thức chứa những năng lực đầy khả năng kiểm soát mà năng lực lớn nhất là libido – năng lực tính dục ẩn ức chỉ muốn thoả mãn bằng mọi phương diện và mọi giá.


Vô thức chứa những suy tưởng bị đè nén, những nguyện vọng bị vùi lấp, những giấc mơ và hy vọng như những cọng cỏ non dưới tảng đá mãi mãi không bao giờ ngoi lên được với ánh sáng của mặt trời lý trí. Thế giới của vô thức vì vậy hoàn toàn không thể hiểu được trừ hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất khi chúng tự thể hiện trong những giấc mơ: Giấc mơ cũng mang theo một nội dung vô thức: Cái năng ý thoả mãn ước muốn ngấm ngầm được biểu lộ hoá qua mãnh mảnh ý thức trong lúc đang ngủ say. Và như vậy văn minh và lịch sử con người chỉ là màn bi kịch lớn diễn lộ và khai mở những nỗi uẩn ức tính dục chứ không phải là của năng ý tinh thần, thượng đế hay đấu tranh giai cấp. Trường hợp thứ hai là cái vô thức xuyên qua những rung động sáng tạo trong nghệ thuật như thơ ca và âm nhạc, hội hoạ.. Freud khẳng định : “Sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật là hình thức nguỵ trang của những ham muốn vô thức”.

“Ham muốn vô thức” trong sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật là gì? Đó chính là những ham muốn tồn tại bên trong mỗi con người mà bản thân ta không ý thức được. Trong quan niệm của Freud là những ẩn ức không được giải toả, những mặc cảm phạm tội mà then chốt là mặc cảm Oedip, những ham muốn bản năng…Những ham muốn ấy về cơ bản bị chối bỏ trong cuộc sống đời thường, cho nên muốn bộc lộ, nó phải kiếm cho mình một “hình thức nguỵ trang” để thoả mãn. Con người do bị ràng buộc, bị khuôn phép bởi những chuẩn mực đạo đức, những giá trị văn hóa của cuộc sống hàng ngày nên phải kiềm chế, buộc phải từ bỏ những ham muốn, những nguyện vọng thầm kín. Dần dần con người tưởng chừng như những ham muốn đó đã bị lãng quên, bị xoá sạch hoàn toàn và không còn ý niệm gì về nó nữa. Nhưng thực chất nó vẫn tồn tại và vô thức con người hàng ngày vẫn tìm mọi cách – kín đáo và ôn hoà với cuộc sống thực tại - để thoả mãn những ẩn ức bị kiềm toả.


Những ẩn ức bị dồn nén tạo nên những xung năng bắt buộc phải giải toả. Những người xung năng quá lớn mà không tìm được con đường giải toả thường sẽ dẫn đến sự điên loạn. Có người giải toả nó bằng trí tưởng tượng mà tiêu biểu nhất là các nhà nghệ sĩ. Họ đã tìm được lối thoát an toàn trong ý thức để vượt lên trên mâu thuẫn không thể hóa giải giữa ham muốn bản năng và những luân lý xã hội. Đó là con đường sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật lúc này trở thành một “hình thức nguỵ trang” tuyệt vời cho những ham muốn vô thức của họ. Ở đó họ vừa giữ được mối quan hệ hài hoà đúng mực với cuộc sống hiện thực với con người của ý thức, con người xã hội lại vừa được thoả thuê với những ham muốn bản năng của mình mà không sợ bị lên án hay chỉ trích. Chính vì thế nhiệm vụ nghệ thuật mỗi thời đại là thể hiện những dục vọng bản năng của người nghệ sĩ bằng chất liệu hình thức thời đại mình. Đây cũng chính là cội nguồn, cơ sở tâm lí của sáng tạo nghệ thuật theo quan điểm của phân tâm học.


Freud xem hoạt động sáng tạo nghệ thuật như biểu hiện của sự thăng hoa của những xung lực tâm lí khởi thủy. Thăng hoa chính là sự cải biến cách ham muốn tính dục bị dồn ép thành hoạt động tinh thần. Quả không sai! Trong lịch sử văn học người ta thấy biết bao những hiện tượng sáng tạo nghệ thuật một cách vô thức thật kì diệu. Sa-tô-ri-ăng nói : "Thần hứng đến và tôi bắt đầu lẩm bẩm những câu thơ". Nhiều nhà thơ sáng tác nhờ nghe thấy tác phẩm từ một đấng tâm linh siêu hình nào đó trong trang thái chập chờn nửa tỉnh nửa mê. Khi tỉnh dậy chỉ việc nhớ và chép lại chính xác tác phẩm mà thôi. Những tác phẩm ấy đều mang trong mình một màu sắc bí ẩn huyền diệu nào đó. Nhà thơ Hoàng Cầm tỉnh dậy lúc nửa đêm vì giọng nữ xa xôi nào đó đang ngân nga, rồi kết quả là sự ra đời của "Bên kia sông Đuống", của "Lá diêu bông" vừa lãng mạn vừa hư ảo. Vấn đề ở đây không phải là sự may mắn. Thực chất của những thần hứng kia những giọng nữ xa xôi kia lại là kết quả của sự dồn nén cảm xúc bấy lâu nay mà người nghệ sĩ không ý thức được. Nếu không phải là Hoàng Cầm với tình yêu quê hương, nỗi nhớ nỗi đau khi quê hương bị giặc tàn phá mà không thể về thăm quê thì cũng sẽ không bao giờ có "Bên kia sông Đuống" dù dưới bất kỳ hình thức nào.


Trong lịch sử văn học, Freud cũng nhìn ra hàng loạt những sơ đồ cốt truyện ổn định trong đó nhà văn tự đồng nhất bản thân mình với nhân vật và mô tả trong đó sự thể hiện của những ham muốn vô thức của mình đồng thời thể hiện những xung đột bi kịch của những ham muốn ấy với những thế lực cấm đoán. "Ham muốn vô thức" mà Freud muốn đề cập ở đây chủ yếu và cốt lõi là mặc cảm Oedipus : đứa trẻ thể hiện sự quý mến người sinh thành ra mình, thuộc giới tính khác mình nhưng lại đố kỵ và căm ghét bậc phụ huynh cùng giới tính với mình. Oedipus là một trong những anh hùng nổi tiếng nhất trong thần thoại Hy Lạp. Chàng là người giết cha, thắng con nhân sư quái ác, cưới mẹ rồi trở thành vua xứ Thebes (Hy Lạp). Việc người hùng phạm tội mà không biết và trái với ý định của mình, biểu đạt đúng bản chất vô thức của những ham muốn phạm tội. Mặc cảm Oedipus cũng thẫm đẫm trong tính cách nhân vật Hamlet của Sheakspear, trong "Anh em nhà Karamazop" của Đoxtoiepxki...Và sau khi cha chết thì Freud cũng như Sheakspear hay Đoxtoiepxki...đều tìm thấy trong mình những thành phần của mặc cảm Oedipus.


Quan điểm của Freud có thể coi là một cái nhìn mới mẻ, mở ra một hướng đi mới trong sáng tạo, thưởng thức và nghiên cứu nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng. Trên thực tế, có rất nhiều bằng chứng chứng tỏ sự sâu sắc và đúng đắn của ông khi cho rằng cội nguồn của sáng tạo nghệ thuật cũng như động cơ của thưởng thức nghệ thuật chính là sự thoả mãn những ham muốn vô thức, những ẩn ức không được giải toả.
Bản thân Freud đã tìm thấy trong các hình tượng nghệ thuật không ít những ẩn ức của người nghệ sĩ in dấu ở đó. Những ẩn ức ấy, theo Freud, thường là ẩn ức thời thơ ấu.


Hãy xem triết gia của cõi vô thức phân tích bức tranh Thánh Moses nổi tiếng của Michel Angelo. Để thấy rõ được dấu ấn của cái vô thức người nghệ trong tác phẩm, Freud đem so sánh hình tượng Thánh Moses trong quan niệm truyền thống và trong con mắt của Michel Angelo. Theo quan niệm truyền thống, Moses hiện lên là một con người vĩ đại sống thực. Moses dễ cáu bẳn và đam mê điên cuồng. Trong một số cơn giận thần thánh, ông đã giết người Ai Cập vì y ngược đãi một người Do Thái, điều này buộc ông phải rời bỏ tổ quốc và trốn vào sa mạc. Cũng trong một cơn bùng nổ đam mê tương tự, ông đã vò nát tác phẩm Tables do chính Chúa viết. Như vậy truyền thống xây dựng Thánh Moses một cách vô tư, đúng bản chất như nó vốn tồn tại. Nhưng đến lượt Michel, ông mang đến một hình tượng Moses khác cao cả hơn hẳn. Ông đã sửa chủ đề của Tables về luật (đã bị vò nát) không cho Moses xé sách đó song sự đe doạ nó bị xé nát làm dịu cơn giận hoặc chí ít kìm nó lại lúc hành động. Như vậy có thể nói, Michel đã đưa vào Moses một cái gì đó mới mẻ, siêu phàm và hình khối mạnh mẽ cũng như cơ bắp cuồn cuộn, đầy sức mạnh của nhân vật chỉ là một phương tiện biểu đạt một kì tích tâm trí tuyệt vời nhất mà con người có thể làm được: Chiến thắng đam mê của mình nhân danh một sứ mệnh được giao.



Freud cũng rất có lí khi phân tích ra được những ham muốn vô thức rất rõ trong các họa phẩm của Leonard Da Vince. Trước hết là bức tranh vẽ nàng Mona Liza với nụ cười bíẩn đã làm say mê biết bao người thưởng thức. Tại sao bức tranh ấy, nụ cười ấy lại có sức hút mạnh đến vậy! Qua cái nhìn của Freud mọi vấn đề dường như trở nên dễ hiểu hơn, dù chưa phải là tất cả. Sự tương đồng giữa nụ cười của nàng Mona Lisa trong bức tranh và nụ cười của chính người mẹ trong những kí ức đầu tiên của Leonard như sự phát hiện muộn màng về quá trình hình thành huyễn tưởng, ở đó trình bày về người mẹ vắng mặt và ở đó biểu lộ một dạng quyến rũ không phải của người mẹ, cũng không phải của người mẫu; sự quyến rũ ấy trở nên khả dĩ bởi vì "toàn bộ cảm xúc đã được đầu tư trước bằng ham muốn".



Leonard đã vẽ lên một nụ cười hai ý nghĩa gần như đối lập nhau: Một nụ cười hứa hẹn âu yếm tột cùng, một nụ cười đe doạ báo trước tai họa. Một nụ cười dịu dàng, thanh thản, vì đã được tháo bỏ những dồn nén kiềm toả và một nụ cười dường như lo âu, vì sự trở lại của những dồn nén kiềm toả kia. Khi Leonard vẽ bức tranh, ông đã thực sự trung thành với những kí ức đầu tiên của mình. Ở đó chính sự âu yếm quá mức của người mẹ đối với ông đã giết chết ông, bịt kín số phận và những thiếu thốn của con người ông và cuộc sống của ông. Khi ông bắt gặp nụ cười xuất thần rất giống với nụ cười của người mẹ lúc vuốt ve âu yếm mình, những ẩn ức bấy lâu nay bị dồn nén bùng dậy. Ông giải toả sự hưng phấn ấy bằng các tác phẩm nghệ thuật và có lẽ chính những sức mạnh của bùng dậy của những ẩn ức ấy đã tạo nên sức quyến rũ cho bức tranh. Bức tranh không chỉ thoả mãn ham muốn vô thức thuở nhỏ một thời bị lãng quên của tác giả mà còn gợi lại trong tâm trí người thưởng thức những kí ức của chính bản thân họ.

Một bức tranh nữa của Leonard cũng được coi là hình thức nguỵ trang của những ham muốn vô thức của chính tác giả. Đó là bức tranh Thánh Anne.

Bức tranh này là tổng hợp lịch sử tuổi thơ của ông: những chi tiết tác phẩm được cắt nghĩa bằng những ấn tượng trong cuộc đời của Leonard. Bức tranh là hình ảnh một người Con giữa hai người mẹ: Một người dang tay đón lấy người con, người kia ở hàng sau nhìn; và ông đã vẽ cả người đều mỉm cười âu yếm và hạnh phúc sung sướng nhìn đứa con. Hình ảnh đứa bé trong tranh chính là hình ảnh thật của cậu bé Leonard. Tuổi thơ của Leonard cũng đặc biệt như bức tranh. Ông có hai mẹ: người mẹ đẻ Catherina, đã bị lấy mất con và người mẹ kế trẻ Dona Albiera. Ông phải xa mẹ và sống với cha và mẹ kế. Chính vì thế, tương ứng với bức tranh, người phụ nữ đang nhoài người ra đón đứa trẻ chính là người mẹ kế của Leonard, còn người phụ nữ dù cũng khao khát được âu yếm, được bế đứa trẻ vào lòng nhưng buộc phải đứng đằng sau nhìn với sự đau đớn ấy chính là người mẹ đẻ của Leonard. Như vậy cũng là nụ cười sung sướng hạnh phúc của người phụ nữ khi làm mẹ nhưng nụ cười của Thánh Anne còn ẩn giấu một nỗi đau và thèm khát khi phải nhường cho người phụ nữ khác đứa con của mình. Như vậy có thể nói chỉ có Leonard với những kí ức tuổi thơ, với nỗi nhớ da diết khắc khoải nụ cười xa xôi của người mẹ mới có thể sáng tạo được một tác phẩm như thế.

Trở lên trên chúng ta vừa bàn về những ham muốn vô thức trở thành sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Quá trình sáng tạo nghệ thuật còn một khâu nữa mới thực sự hoàn chỉnh. Ta có mệnh đề thứ hai trong quan điểm của Freud: thưởng thức nghệ thuật cũng là một hình thức ngụy trang của những ham muốn vô thức. Nếu người nghệ sĩ thỏa mãn những nguyện vọng bản năng bằng con đường sáng tạo thì khán giả lại giải tỏa những ẩn ức của mình trong khi thưởng thức nghệ thuật. Đây cũng là một sự thỏa mãn ôn hòa.
Xuất phát từ quan điểm ham muốn vô thức là cội nguồn sáng tạo, Freud yêu cầu người nghệ sĩ trong tác phẩm của mình cần tái hiện được những trạng thái ham mê, những cảm xúc tâm trí đã làm cho họ nhiệt tình sáng tạo. Nghệ sĩ có thể coi tác phẩm của mình như một giấc mộng nhưng không phải là sản phẩm của thói tự si mê, phi xã hội của mộng, để độc giả vẫn có thể tin cậy để rồi từ đó chúng còn có thể làm thức dậy và thoả mãn những ao ước ham muốn giống như bản thân tác giả ở người thưởng thức nghệ thuật. Như vậy, Freud khi thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật ông không đặt ra câu hỏi : Cái hay của tác phẩm nằm ở chỗ nào? Sự tài giỏi của tác giả đến đâu?, mà cái quan trọng nhất là: Tác phẩm có thể thoả mãn được những “ham muốn vô thức” của người thưởng thức đến đâu? Tác phẩm thoả mãn được càng nhiều những khao khát của khán giả thì càng chứng tỏ tài năng và nhiệt tâm của tác giả dồn trong đó. Đây mới chính là thước đo giá trị của tác phẩm.

Có người tìm đến và xem và đọc những bộ phim có yếu tố sex để thỏa mãn bản năng tính dục của mình, giữ được thăng bằng trong cuộc sống. Những tác phẩm nghệ thuật mang yếu tố sex luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người, mặc dù người ta ít hoặc không dám biểu lộ công khai sự quan tâm vì yếu tố đó. Người ta cùng nhau bàn đến những yêu tố nhân văn hay không nhân văn của sex, nên hay không nên viết về sex,...Đó chỉ là những hình thức ngụy trang. Con người lúc này đứng ở vị trí đứng trên những yếu tố tương tự như sex chứ không coi sex là một phần trong bản chất bản năng của mình. Họ luôn khẳng định lập trường giá trị nghệ thuật chân chính khi tiếp cận những tác phẩm có yếu tố sex. Nhưng thực chất hoặc là họ không dám thừa nhận hoặc họ vô thức không nhận ra khi thưởng thức những tác phẩm như thế thì đầu tiên cái ham muốn tính dục bản năng của con người được thỏa mãn. Trong cuộc sống chúng ta thấy càng những người sống cuộc sống nguyên tắc, là hiện thân của đạo đức lại là những người dễ bị lôi cuốn bởi những tác phẩm phi chuẩn mực, phi đạo đức. Xưa kia, khi Giả Bảo Ngọc đưa "Tây sương kí" – một tác phẩm thời ấy bị coi là dâm thư - cho Lâm Đại Ngọc. Sau khi đọc xong, cô tiểu thư đài các Lâm Đại Ngọc ấy say mê hơn bất kì một cuốn sách nào cô đã từng đọc, thậm chí có nhiều chỗ cô còn thấy chỗ đồng cảm. Đó là gì nếu không phải là bản chất thực của con người cô bấy lâu nay bị lễ phép phong kiến chèn ép, đóng khuôn giờ có cơ hội để thỏa mãn?

Người ta xem những phim hành động, đọc nhiều những tiểu thuyết trinh thám để thỏa mãn cái mặc cảm phạm tội hay cả những bản năng phiêu lưu...Người ta nghe nhạc để quên đi những hiện thực không có cái vô thức của họ ở đó.

Trường hợp của nhà khảo cổ học Norbert Hanold là một trường hợp đặc biệt. Một lần ông tình cờ phát hiện trong một bộ sưu tập đồ cổ ở Rome, một bức chạm nổi thấp làm ông rất hài lòng. Ông vui sướng làm một khuôn hình bức chạm đó: ông đem treo nó trong phòng học của ông, ở một thành phố đại học nhỏ ở nước Đức, và nghiên cứu mỗi khi nhàn rỗi. Đây là hình ảnh một nữ thanh niên hoàn toàn nở hoa ở tuổi thanh xuân; cô bước đi và vén lên một chút chiếc áo có nhiều nếp khiến có thể nhìn thấy chân nàng. Một chân đặt trên đất, chân kia đã nâng lên, chỉ còn chạm đất ở các đầu ngón, đế và gót nâng lên gần như thẳng góc.

Tại sao một bức điêu khắc như thế lại khiến Norbert say sưa thích thú đến vậy? Phải chăng ngoài vẻ đẹp dễ thấy mà bức điêu khắc mang lại thì còn một bí ẩn nào đó? Và cuối cùng nhà khảo cổ học kia cũng phát hiện ra rằng: hình ảnh cô gái trong bức phù điêu gợi cho ông kỉ niệm về người bạn gái thời thơ ấu. Đứng trước bức chạm nổi, ông không nhớ là đã trông thấy hình dáng của chân người bạn gái thời thơ ấu và anh chẳng nhớ gì cả, tuy vậy toàn bộ tác dụng của bức chạm nổi dẫn xuất từ quan hệ với ấn tượng từ thời thơ ấu. Như vậy ấn tượng này trở nên sống động, đến nỗi bắt đầu biểu hiện tác động nhưng nó không đạt đến ý thức, nó vẫn vô thức.

Nhìn chung về cơ bản quan điểm của Freud đã cho ta một hướng nghiên cứu nghệ thuật đúng đắn sâu sắc, ở đó quan tâm đến vấn đề tiểu sử con người với những ẩn ức, những tiềm thức là cần thiết làm phương tiện để lý giải và cắt nghĩa những sáng tạo của họ. Đồng thời, quan điểm trên của Freud không chỉ cho ta thây được cội nguồn sáng tạo nghệ thuật mà còn khẳng định vai trò của nghệ thuật đối với đời sống tâm lí của người nghệ sĩ cũng như của khán giả. Đối với người nghệ sĩ, tác phẩm là sản phẩm của những chế biến xung đột cảm xúc vốn nảy sinh bởi những trải nghiệm tính dục tuổi thơ. Đối với khán giả, những khoái cảm mà tác phẩm đem lại sẽ được coi như một sự giải thoát khỏi những căng thẳng của các lực tâm thần do đạt được một sự thỏa mãn mang tính chất ảo tưởng. Đến đây, nghệ thuật đã thực hiện được chức năng thanh lọc của mình.

Tuy nhiên, quan điểm của Freud vẫn còn những hạn chế nhất định. "Ham muốn vô thức" mà Freud đề cập tới là cội nguồn của sáng tạo nghệ thuật mới chỉ hạn hẹp với nghĩa là ham muốn tính dục, những ẩn ức tuổi thơ, hay mặc cảm Oedipus. Vô thức với Freud chỉ hoàn toàn mang tính bản năng. Nhưng sự thực vô thức còn có nghĩa bao hàm khái quát rộng lớn hơn thế, bao gồm nhiều hình tượng thuộc nhiều cấp độ khác nhau. Có cái còn gọi là "trực giác", "linh cảm", "phản xạ vô điều kiện"...Nhiều khi đặc biệt là ở những thiên tài lỗi lạc và những người có trình độ nhạy cảm cao về tư duy lại chính là những biểu hiện đặc thù của ý thức cao cấp, của ý thức đã chìm sâu vào tiềm thức, của hoạt động ta duy lặp đi lặp lại và trở thành "tự động hóa". Với cách quan niệm vô thức chỉ là những ham muốn bản năng, mà vô thức lại là cội nguồn sáng tạo nghệ thuật thì vô hình chung Freud đã thu hẹp nội dung của nghệ thuật, thậm chí dẫn đến hiểu sai mục đích và chức năng của nghệ thuật. Nghệ thuật đúng là có bắt nguồn từ những ham muốn vô thức nhưng đó không phải là tất cả.

Một hạn chế nữa trong quan điểm của ông đó là, ông đã tuyệt đối hóa vai trò của vô thức đối với nghệ thuật. Tuy cái vô thức có thể gây tác động thúc đẩy hoặc cản trở đối với chiều hướng phát triển nào đó của tư tưởng, ảnh hưởng đến một số tính chất và đặc điểm cụ thể của tác phẩm song không thể phóng đại vai trò của nó, thậm chí cho rằng không cần có sự tham gia của trí tuệ, ý thức vẫn có thể sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật. Bằng chứng rõ nhất đó là chủ nghĩa nghĩa siêu thực thế kỉ XX ở Pháp. Cơ sở của lối sáng tác siêu thực là tính tự động thuần tâm lý, biểu đạt vô thức giấc mơ, ảo giác, mê sảng, hồi ức, hình bóng thần bí,... Ở đó không hề có một chút liên kết logic hay có ý thức nào, vì thề phần lớn tác phẩm rơi vào khó hiểu và quái đản, vô nghĩa lý. Đó cũng chính là cái chết của nghệ thuật.


Chúng ta cần thấy được mối quan hệ giữa cái vô thức và ý thức trong sáng tạo nghệ thuật. Giữa chúng không có một bức tường ngăn tuyệt đối như Freud quan niệm. Các quá trình được bắt đầu trong vô thức nhiều khi vẫn tiếp tục trong ý thức và ngược lại nhiều cái thuộc về ý thức lại có khi bi xua đuổi về tiềm thức. Vô thức mang đến sức mạnh nội tại, sự quyến rũ huyền bí cho tác phẩm nghệ thuật. Còn ý thức khiến cho nghệ thuật có chiều sâu và đưa cái vô thức lên một giá trị cao nhất có thể có. Người nghệ sĩ nên thấy được và vận dụng linh hoạt mối quan hệ đó trong tác phẩm của mình.

Mặc dù quan điểm về nghệ thuật của Freud không được trình bày một cách hệ thống như những quan điểm nghệ thuật của Heghen, Mac...nhưng nó vẫn có những đóng góp nhất định cho lịch sử nghệ thuật nhân loại. Đặc biệt là nó gợi ra một hướng đi mới khám phá tác phẩm nghệ thuật, khám phá theo con đường từ những ham muốn vô thức của nghệ sĩ và người thưởng thức. Đó là một điều đáng trân trọng.

Trần Thị Thu Hương
http://my.opera.com/tranthithuhuongnd58/blog/sang
.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét